You are currently viewing Áo nắng miền Nam – News Tin Genz

Áo nắng miền Nam – News Tin Genz

Chúng tôi cùng ngồi xuống vệ cỏ, anh Dần ra hiệu bảo tôi im lặng. Chưa tới trưa nhưng trời đã chang chang nắng. Không gian dường như cao vút lên.

Chỗ chúng tôi ngồi ở sát mép một cái ao nhỏ, mặt ao loi thoi mấy chú bọ nước, làm gợn lên một chút xao động vẻ buồn buồn. Anh Dần chụm tay lên tiếng gọi. Anh gọi vừa đủ nghe. Tôi có cảm tưởng như cái âm thanh “u oa” kia như một làn gió thổi nhẹ – nó luồn lách len lỏi vào đám sậy mọc lúp xúp quanh ao. Dứt ba lần “u oa” từ trong đám sậy xuất hiện một con thuyền nhỏ. Với vẻ tập trung cao độ, anh từ từ kéo dây manh. Con thuyền nhỏ được ghép hết sức công phu bằng các ống sậy cũng từ từ tiến lại phía chúng tôi. Vẫn nhìn về con thuyền, anh Dần thầm thì: “Cô ấy đến đấy”. Tôi như căng hết cả mắt, thì thầm hỏi lại: “Chị ấy có đẹp không anh?”. “Ðẹp – Anh Dần đáp nhỏ – Rất đẹp là đằng khác”. Tôi cất cái nhìn của mình xoay người qua bên anh, hỏi: “Anh nhớ chị ấy à?” Anh Dần không đáp, con thuyền đã được kéo lại gần hơn. Trên thuyền là hình nộm một người con gái trong tư thế đứng chèo. Anh Dần đột ngột ra lệnh: “Nhắm mắt lại! – Và anh dịu giọng xuống – Có hình dung ra được gì không?”. Tôi lắc đầu nhưng cố hỏi thêm: “Chị ấy có nhớ anh không?”. “Cô ấy hy sinh rồi” – Anh Dần nói rất nhỏ. Trên vòm trời, đám mây tỏa ra trôi tản mát, phiêu dạt.

Bấy giờ là cuối tháng tư năm 1972. Cái thị trấn nhỏ quê tôi với hai dãy phố thấp, nằm ôm lấy đường 5 chợt bừng lên sau hồi thiêm thiếp ngắn. Những đợt bom B52 rải thảm đã làm mọi người sôi lên đau đớn. Những tin tức thiệt hại cứ lan truyền từ tai người này qua tai người khác. Bọn choai choai chúng tôi cứ hướng về phía Hải Phòng, chân nhảy cẫng lên, miệng hét ầm ĩ: “Cháy rồi! Cháy rồi!”. Xa xa, trên nền trời vô tận thi thoảng có vài đám khói trắng bốc lên. Anh Dần mắt ngó trân trân, hồi lâu mới lên tiếng rủa khẽ: “Quân chó má. Ông sẽ cho chúng mày biết tay”. Rồi anh lủi thủi bỏ đi để mặc lũ chúng tôi chạy ào lại chỗ giấu cặp sách. Ðứa nào đứa nấy vơ quàng vơ vội, cắm đầu cắm cổ chạy đến lớp. Tiếng hò hét dài thành chuỗi.

Bấy giờ đang là mùa hoa sấu nở. Thoắt thế thôi dãy phố nhỏ choàng một chiếc áo mầu trắng. Những cánh hoa sấu nhỏ li ti, nở ken vào nhau, dậy hương thơm nhè nhẹ. Nếu có cơn gió nào chợt qua, từng cánh hoa nhỏ rơi xuống lất phất hệt như mưa phùn tháng Giêng. Cứ để nguyên cho những cánh hoa rụng lên tóc, anh Dần đi bộ dọc dãy phố. Anh đi rất chậm. Bàn tay phải vuốt rờ rờ vào thành những chiếc xe tải quân sự nằm im. Dưới gầm xe, hoặc giữa khoảng cách hai xe, các anh bộ đội lái xe đang ngủ say. Có anh nằm võng. Có anh trải ni-lông dưới nền đường. Cứ mỗi lần gặp một anh bộ đội nào đó đang ngủ thì anh Dần lại dừng lại. Anh nói khẽ: “Các đồng chí ngủ đi. Tối nay sẽ hành quân”. Anh Dần kiên nhẫn đi dọc rồi đi ngược dãy phố có đoàn xe. Một ngày của chiến tranh yên lặng và bình thản trôi…

Trong họ, anh Dần là con bác, còn tôi là con cô. Nhưng thực tình là họ xa. Anh học trường cấp III do bố tôi làm hiệu trưởng. Ngôi trường ấy được xây dựng ở cuối phố. Nó là một trong vài ba trường cấp III hiếm hoi của tỉnh Hưng Yên được xây dựng trong thời kỳ 5 năm lần thứ nhất – thời của những năm 60. Anh Dần đi bộ đội sau Tết Mậu Thân, năm đó anh đang học lớp 10. Anh đến nhà tôi, nói trang nghiêm: “Chào thầy con đi”. Bố tôi vỗ vào vai anh: “Cháu đi… Em đi mạnh khỏe”. Tôi lúc đó mới 11 tuổi.

Thời đó, năm nào cũng có các đợt học sinh của trường lên đường. Các lớp học vãn hẳn. Bố tôi những lúc rỗi ngồi đọc sách thường chép miệng: “Chúng nó toàn những thằng học được…”. Tôi còn bé, mải chạy rông nên không để ý lắm. Cũng những năm đó, lâu lâu lại có tin đưa về. Quê tôi tổ chức lễ truy điệu ngay tại sân đình cho các liệt sĩ có giấy báo tử. Trời nhem nhem tối, đèn đóm không được dùng. Anh Dần cũng có một lần được quê hương tiến hành như thế. Tôi ngơ ngác nhìn mọi người đang khóc sụt sùi. Không có tiếng khóc to. “Khóc to là không dũng cảm” – Bố tôi có lần bảo với tôi như vậy.

Cuối năm 1971, anh Dần đột ngột đeo ba-lô về làng. Anh cười chảy cả nước mắt “Bị thương thôi. Lạc đơn vị. Chúng mày biết không? Tao chết thế quái nào được”. Bọn trẻ con chúng tôi phục lắm. Phục thật sự và lại càng phục hơn khi biết anh Dần là đặc công nước. Anh bảo: “Tao đánh nhau ở rừng Sác. Vận độc xà lỏn thôi”.

Hóa ra anh Dần không chết. Anh bị thương và được đưa ra Bắc an dưỡng. Ðợt này anh về quê nghỉ ít ngày. Bọn choai rồng rắn đi theo anh. Anh Dần hỏi: “Tao phải đến chào thầy đã”. Anh đến nhà tôi, hỏi bố tôi: “An dưỡng xong thầy có cho em học lại không?”. “Học chứ – Bố tôi nói – Nhất định các em trở về đều được trường nhận vào học”. Anh Dần vui lắm. Không ngờ đấy lại như câu chuyện đùa. Vết thương vùng đầu ngấm dần, ngấm dần. Anh Dần chỉ tỉnh táo vào mùa trời mát. Ở nơi an dưỡng anh được chăm sóc chu đáo. Bố tôi đọc báo rồi nói: “Chỗ anh Dần là trại thương binh tâm thần”.

Ðến mùa hoa sấu nở sau, anh Dần từ trại an dưỡng ở Ninh Bình trở về. Người đen và béo. Mái tóc cắt cua của anh trông ngồ ngộ. Anh về tay không, nghĩa là ngoài bộ quần áo bộ đội đã dung dúc mặc trên người ra, anh Dần không mang theo một thứ gì. Anh đi từ đầu phố lại, vừa đi vừa ngó nghiêng vẻ tìm kiếm. Thoạt đầu không ai nhận ra. Tôi vốc một vốc hoa sấu rụng từ chỗ vun trên mặt đường tung hê lên trời. Cánh tay tôi bị giữ lại. “Mày là thằng Trường hả?”. Tôi giật mình ngơ ngác nhìn, cánh tay đang giữ tay tôi nhả ra. Gương mặt người ấy nhìn tôi chờ đợi. Tôi kêu “á” lên rồi vùng chạy miệng hét to: “Anh Dần đã về! Anh Dần đã về!”. Những cánh hoa sấu nhỏ li ti rụng xuống rào rào, phủ trắng quanh nơi anh Dần đang đứng. Anh cười không thành tiếng.

Mấy ngày đầu anh Dần còn tỉnh táo. Anh ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Tao thích ngửi mùi hoa sấu. Tao trốn về đây”. Ðúng là anh Dần trốn trại an dưỡng về thật. Hằng ngày, anh cứ đi đi lại lại trong cái dãy phố chỉ đảo mươi bước chân là hết. Anh đi im lặng, miệng luôn cười. Tháng Tư, trời cao, nắng trắng. Cho dù bận tíu tít cuối năm học nhưng cứ hở ra là bọn chúng tôi đòi anh Dần kể chuyện. Anh chỉ tay vào tôi bảo: “Thằng Trường mày trắng quá. Trong bộ đội tất cả mọi người không ai được trắng. Trắng như vậy là không biết đánh nhau”. Không biết đánh nhau nghĩa là thua, tôi nghĩ vậy bèn hỏi riêng anh: “Muốn đen thì làm thế nào hả anh?”. “Dễ ợt – Anh Dần nói – Mày phải nhuộm đen”. Tôi hỏi lại: “Nhuộm bằng cách nào?”. “Ái cái thằng này đụt quá. Nghe tao bảo này”.

Thế là từ hôm đó sau bữa ăn trưa tôi và mấy thằng bạn nữa mình trần, chân đất, mặc quần đùi đi “chu du” ngoài nắng. Cái thứ da học trò nửa quê nửa tỉnh gặp nắng đỏ rực lên và tím dần. Nhưng chỉ được dăm hôm thì lớp da được “nhuộm” ấy thâm lại và bóc ra được. Nói gọn, trắng vẫn hoàn trắng. Tất nhiên cả bọn đều lên cơn sốt. Bố tôi biết chuyện, ông cười bảo: “Rèn luyện là tốt. Nhưng rèn luyện phải có chừng mực và làm quen dần”. Anh Dần đứng thập thò ngoài cửa nói vọng vào, giọng tồi tội: “Em xin lỗi”.

Nhưng ác nhất là anh Dần bắt đầu tái phát bệnh. Ban đầu anh vừa đi vừa nói lảm nhảm những câu mà không ai hiểu. Bệnh tăng dần, nhất là hôm nắng to. Bộ quần áo bộ đội được anh Dần vận chỉnh tề, dép cao-su đi đủ bốn quai, đầu không mũ nón, anh Dần chạy huỳnh huỵch và gào ầm ĩ. Dãy phố chạy tán loạn, họ bảo nhau: “Thằng điên. Thằng điên”. Tôi đứng bên một gốc sấu mắt nhìn theo mọi cử chỉ của anh Dần và thái độ của mọi người. Trong nhìn nhận của họ thì anh Dần là một “thằng điên” đang hò hét và thuận tay là phá phách. Dãy phố nhỏ có các cánh cửa cọt kẹt khép lại trước khi anh Dần tới và he hé mở ra khi giọng hò hét của anh Dần xa xa. Trời nắng chang chang, tiếng ve kêu sốt cả ruột. Bố kéo tôi vào lòng: “Anh Dần tội quá. Chỉ thương bác Ðậu”.

Liên tiếp cả tuần anh Dần lên cơn. Tuần ấy dường như anh không ăn uống gì cả. Suốt ngày và suốt tối chỉ thấy một mình anh vừa chạy vừa gào trên phố. Giọng anh khô dần rồi đặc lại. Chỉ còn nghe tiếng khò khè mệt mỏi. Anh ngồi bệt xuống đường, hai mắt vô hồn mở to, người gầy đét lại, mái tóc cắt cua trở nên lởm chởm. Bố con tôi lại gần anh, gọi nhỏ: “Anh Dần. Anh Dần. Thầy Bình đây. Em về nhà đi. Em tự về hay để thầy đưa em về”. Anh Dần ngước mắt lên nhìn bố con tôi. Nhìn lâu lắm, có lẽ anh đã nhận ra nên từ tốn đứng dậy, miệng khè khè, lảo đảo đi về nhà. Sau khi được tiêm mấy ống trợ lực, anh Dần ngủ mê mệt. Hôm sau anh có vẻ tỉnh táo hơn; cặp mắt nhầu nhĩ, áo quần rách mướp. Mọi người đã kịp đưa anh về trại.

Tình hình chiến sự đem lại nhiều háo hức, năm 1975 đến và kéo theo một không khí tưng bừng. Sau Tết, tôi có lệnh nhập ngũ. Buổi tối hôm trước ngày tập trung, anh Dần đột ngột xuất hiện. Anh già đi nhiều so với tuổi. Ðã ba năm “cái thằng điên” lại hiện diện. Cả nhà tôi thoáng một chút sững sờ. Bố tôi nhanh hơn, gọi: “Dần về đấy à? Vào đây em”. Anh chẳng chào hỏi ai, anh đến bên tôi. “Ðược tin mày đi bộ đội, tao về cho mày cái này”. Tôi nhìn anh: “Anh uống chén nước đã”. Tay xua rối rít, anh Dần nói: “Ði theo tao. Ði theo tao”.

Chúng tôi đứng cạnh một mảng tường cũ, anh Dần đưa cho tôi một gói giấy nhỏ, giọng quan trọng thầm thì: “Cho mày cái bùa hộ mệnh”. Tôi run run đỡ gói giấy và nhìn anh dò xét, anh Dần gật gật đầu tỏ ý bảo tôi mở ra. Qua ánh sáng của ánh đèn nhà ai đó hắt vào tôi nhận thấy đó là một chiếc áo bà ba mầu mận chín. Anh Dần kéo tôi ngồi xuống: “Mày còn nhớ cô ấy không?”. Tôi lại hỏi: “Cô nào cơ?”. Anh Dần không nói gì, đầu cúi trầm ngâm. Trông anh lúc này không có vẻ gì của một người điên. Im lặng kéo dài. Chợt tôi cảm thấy cay cay nơi mũi. Thì ra anh Dần đã tranh thủ khoảng thời gian thần kinh ổn định để kịp về tiễn tôi lên đường. Thì ra anh Dần không quên điều gì cả. Bảy năm trước, cũng hệt như hoàn cảnh tôi lúc này, anh Dần đi đánh giặc. Tôi nhìn anh biết ơn và lúc này mới nhớ ra câu chuyện về một người con gái Nam Bộ – về chị ấy như anh đã kể cho tôi nghe bữa bên bờ ao có những cây sậy mọc lúp xúp ven bờ.

Bây giờ, nếu như nhắm mắt lại là xuất hiện trong tôi hình ảnh một dòng kênh Nam Bộ. Dòng kênh trong và xanh, hai bên bờ xanh rì lá cây dừa nước. Tiếng chèo khua dàn dạt. Trên con đò nhỏ có bóng dáng một người con gái miền Nam đang đứng chèo đò. Chiếc nón trắng quàng sau lưng, để mái tóc mặc cho gió thổi. Nắng miền Nam bao la làm khúc kênh ánh lên muôn vàn tia lấp lánh. Người con gái ấy đầu ngẩng cao, toàn thân vươn về phía trước, hai vạt áo bà ba màu mận chín xòa bay.

*

* *

Bây giờ, nếu như nhắm mắt lại là xuất hiện trong tôi hình ảnh những chiến sĩ đặc công rừng Sác ngâm mình trong nước. Những chiến sĩ đặc công ấy mặt nhám nắng. Chỉ đôi mắt mở căng, chăm chú hướng cái nhìn về phía mục tiêu. Các anh ẩn khuất sau những tán lá dừa nước.

Bây giờ, nếu như nhắm mắt lại là xuất hiện trong tôi hình ảnh người con gái miền Nam với gương mặt ẩn dưới vành nón khoai thai. Con đò nhỏ lặng lẽ trườn đi. Nếu tinh ý một chút xuôi về hai sóng nước rẽ phía đuôi thuyền, thấp thoáng bóng các anh đặc công rừng Sác. Con đò vẫn trườn đi, luồn lách dưới tán lá của các cây dừa nước. Ðến một khoảng trống, chợt trên trời xuất hiện một chiếc trực thăng. Trong nháy mắt nó đã phát hiện ra con đò, sau khi lượn thấy nghi ngờ chiếc trực thăng xoay quanh mục tiêu. Giây phút ấy vang lên một tiếng hô: “Các anh nấp đi, đừng lo cho em”. Và con đò bỗng lao vụt đi lướt khỏi đội hình đang bí mật của các anh bộ đội rừng Sác. Loạt đạn đầu tiên bắn xuống làm dựng lên những cột nước nhỏ. Rồi liên tiếp các cột nước. Con đò chìm trong các cột nước ấy rồi mất hẳn…

Có lần tôi hỏi anh Dần: “Làm thế nào anh có được chiếc áo?”. Anh Dần đượm buồn, mãi mới trả lời: “Có khi phải lớn thì mày mới hiểu”…

Leave a Reply